✨Survivor (album của Destiny's Child)
Survivor (Tạm dịch: Sống Sót) là album phòng thu thứ ba của nhóm nhạc nữ người Mỹ Destiny's Child, phát hành bởi hãng Columbia vào ngày 1 tháng 5 năm 2001 tại Mỹ. Album được sản xuất chính bởi Beyoncé Knowles và J.R. Rotem, kèm theo những ca khúc được sản xuất bởi Poke & Tone, Cory Rooney và Mark J. Feist. Survivor gồm bốn đĩa đơn, trong đó có hai đĩa đơn quán quân là "Bootylicious" và "Independent Women Part 1", hai đĩa đơn do Beyoncé sáng tác được phát hành là "Survivor" và bản thu lại của ca khúc "Emotion" thuộc nhóm nhạc The Bee Gees.
Tại Mỹ, album lần đầu xuất hiện với vị trí quán quân trên bảng xếp hạng Billboard 200 vào ngày 19 tháng 5 năm 2001 cùng 663,000 bản được tiêu thụ trong tuần đầu tiên và giữ vị trí quán quân trên bảng xếp hạng này đến hai tuần liên tiếp. Nhờ những thành công trên mà album đã giúp nhóm có cơ hội giành lấy ba đề cử Grammy cho hạng mục Trình diễn Song ca hoặc Nhóm nhạc R&B Xuất sắc nhất, Bài hát R&B Xuất sắc nhất, và Album R&B Xuất sắc nhất. Survivor sau đó đã được trao tặng đĩa Bạch kim bởi hiệp hội RIAA vào ngày 7 tháng Giêng, 2002. Tạp chí Billboard đã liệt kê Survivor ở vị trí #70 trong danh sách Top 200 Albums of the Decade (200 Album của Thập kỷ).
Thực hiện
Bối cảnh
Vào tháng 11 năm 1999, LeToya Luckett và LaTavia Roberson đã kiện quản lý của mình, Mathew Knowles vì ông đã chia lợi nhuận không đều cho các thành viên, thu nhập chủ yếu thuộc về hai thành viên thân cận của ông là Beyoncé Knowles và Kelly Rowland. Trước khi họ có ý định rời nhóm, trong khi thực hiện video "Say My Name" vào tháng 2 năm 2000, họ đã phát hiện ra rằng nhóm sẽ có hai thành viên mới thay thế họ là cựu ca sĩ hát bè cho Monica, Michelle Williams và một diễn viên nghiệp dư Farrah Franklin, hay người sẽ gia nhập cùng hai thành viên còn lại. Knowles hầu như sau đó đã viết và sản xuất toàn bộ album này, nhưng thực chất rằng cô không hề có ý định viết hay sản xuất hết các ca khúc trong album. Cô giải thích, "Tôi lúc đó chỉ mong muốn sáng tác khoảng ba ca khúc... Nhưng hãng thu cứ tiếp tục nói 'Hãy sáng tác thêm nữa đi, hãy sáng tác thêm nữa đi, hãy sáng tác thêm nữa đi'. Tôi chưa hề lên kế hoạch này. Tôi chưa hề nói rằng 'Được, Tôi sẽ làm chủ album này'."
Ca khúc chủ đề "Survivor" được lấy cảm hứng từ trò đùa của một đài phát thanh khi trêu chọc rằng ba thành viên còn lại sẽ rời khỏi nhóm. Knowles đã lấy cảm hứng từ những phản hồi tiêu cực ấy để viết một ca khúc với nội dung mang tính tích cực. Entertainment Weekly khen ngợi album và cho rằng "(Survivor) là những diva chớm nở một cách nhanh chóng, dù vậy, những cô gái này vẫn gây được ấn tượng mạnh đối với khán giả." Tạp chí Spin cho rằng "Survivor đã chính là những sáng tạo không ngừng của các cô gái và nhóm đã được sống trở lại." Ngược lại với những ý kiến trên, tạp chí New York cho rằng album không giành được nhiều sự thuyết phục khi nói: "Tất cả 15 ca khúc trong album đều là kinh khủng theo một cách, đều là những câu chuyện về việc loại bỏ các thành viên, trả thù bạn trai của mình và đáp lại những tin đồn xung quanh." Allmusic bình luận rằng: "Nghe khá giống như những gì Mariah Carey đã làm, chỉ có điều là không được hay cho lắm."
Album đã giành được một giải Soul Train Lady of Soul Award cho hạng mục "Album R&B/Soul của Năm", một giải Teen Choice Award cho "Album R&B/Soul của Năm - Bởi một Nhóm nhạc, Ban nhạc hay Song ca", cùng một giải American Music Award cho "Album Pop/Rock được Yêu thích". Destiny's Child đồng thời cũng đã thắng một Giải Grammy cho "Trình diễn Song ca hoặc Nhóm nhạc R&B Xuất sắc nhất" nhờ ca khúc chủ đề "Survivor". Còn album này sau đó cũng đã giành một đề cử Grammy nữa là "Album R&B Xuất sắc nhất".
Những thành công đã gặt hái
Survivor lần đầu xuất hiện trên bảng xếp hạng album của Billboard với vị trí quán quân cùng số lượng đĩa tiêu thụ trong tuần đầu tiên khá cao, hơn 663,000 bản, kỷ lục này đã đánh bại những nhóm nhạc nữ khác theo thống kê của SoundScan và đồng thời cũng chính là album có số lượng đĩa bán tuần đầu tiên cao nhất trong lịch sử của hãng thu Columbia Records.
Survivor sau đó đã xuất hiện với vị trí quán quân hơn 9 quốc gia trên thế giới, trong đó có Anh Quốc, nơi album được chứng nhận 3-lần Bạch kim bởi hiệp hội BPI với 900,000 đến 1 triệu bản đã được tiêu thụ tại đây. Album đồng thời cũng vươn lên vị trí quán quân tại Canada cùng 31,000 bản được tiêu thụ trong tuần đầu (nhưng vẫn được chứng nhận 4-lần Bạch kim với hơn 400,000 bản được tiêu thụ tổng cộng), và sau đó xuất hiện trong top 10 album tại Úc, Thụy Điển, Nhật Bản, Pháp, Ý, Phần Lan và Ba Lan.
Nhờ Survivor, Destiny's Child đã trở thành nhóm nhạc nữ tại Mỹ thứ hai có album đứng nhất tại Anh, chỉ sau nhóm Diana Ross & the Supremes đứng nhất 24 năm về trước cùng album tuyển tập những ca khúc hay nhất của nhóm. Survivor chính là album phòng thu quán quân tại Anh đầu tiên (không phải là album tuyển tập những ca khúc hay nhất) được trình bày bởi một nhóm nhạc nữ người Mỹ suốt 43 năm vừa qua trong lịch sử của bảng xếp hạng. Với hai đĩa đơn quán quân tại Anh ("Independent Women Part I" và "Survivor"), Destiny's Child đã tiếp tục giành lấy kỷ lục nhóm nhạc nữ người Mỹ có nhiều đĩa đơn quán quân tại Anh nhất. Nhóm nhạc người Mỹ cuối cùng giành được danh hiệu nay chính là nhóm The Bangles với ca khúc đình đám "Walk Like an Egyptian" năm 1987.
Ngoài ra, đĩa đơn "Survivor" đã giữ vững vị trí á quân sáu tuần liền trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100. "Independent Women Part I" (đồng thời cũng nằm trong album nhạc phim của _Charlie's Angels') đã vươn lên vị trí đầu bảng xếp hạng _Billboard'' Hot 100, R&B và bảng xếp hạng nhạc Dance. Video cho ca khúc "Bootylicious" của album còn kèm theo sự xuất hiện của Stevie Nicks.
Tại châu Âu, album được chứng nhận 2-lần Bạch kim với hơn hai triệu bản được tiêu thụ khắp châu lục này; đến nay album đã vươn lên con số ba triệu bản. Album đồng thời cũng đã được chứng nhận 2-lần Bạch kim tại Úc. Hiệp hội IFPI đã cho ra thống kê rằng Survivor là album bán chạy thứ ba thế giới vào năm 2001 với hơn 7.8 triệu bản được tiêu thụ trong năm này. Đến nay, album đã bán được 10 triệu bản.
Danh sách ca khúc
Phiên bản tại Mỹ
Phiên bản Quốc tế
Mã hàng: Europe COL 501783 2, Australia 501703 2
"Bootylicious" gồm nội dung của "Edge of Seventeen (Just Like the White Winged Dove)" bởi Stevie Nicks. "Nasty Girl" gồm nội dung từ ca khúc "Tarzan Boy" của Baltimora viết bởi Maurizio Bassi và Naimy Hackett. Ca khúc này gồm thêm nội dung từ "Peabody's Improbable History". *"Gospel Medley" là điệp khúc giữa hàng loạt các bài hát là "Holy is the Lamb" của Kirk Franklin, "Jesus Loves Me" của Anna Bartlett Warner và "Total Praise" của Richard Smallwood.
Những người thực hiện
Mark J. Feist – sản xuất, chịu trách nhiệm, kỹ thuật Tony Maserati – hòa âm Vladimir Meller – giám đốc Dave Pensado – hòa âm Nunzio Signore – guitar Richard Travali – hòa âm D'Wayne Wiggins – guitar, sản xuất Richard J. Davis – đồng sản xuất James Hoover – kỹ sư, kỹ sư thu âm Walter Afanasieff – bass, kỹ thuật, kỹ thuật trống, chịu trách nhiệm, sản xuất, đàn keyboards Tom Coyne – giám đốc Poke – sản xuất Corey Rooney – sản xuất Jim Caruana – kỹ sư Dexter Simmons – hòa âm Poke & Tone – sản xuất Brian Springer – kỹ sư, kỹ sư thu âm Flip Osman – trợ lý kỹ sư, trợ lý Jill Topol – nhà tạo mẫu Destiny's Child – ca sĩ trình diễn chính Nick Thomas – hòa âm Dan Workman – guitar, hòa âm, kỹ sư thu âm, kỹ sư Damon Elliott – sản xuất, kỹ sư Troy Gonzalez – kỹ sư Anthony Dent – sản xuất, kỹ sư Rob Fusari – sản xuất
Beyoncé Knowles – ca sĩ, nhạc sĩ, sản xuất, chịu trách nhiệm thu âm Kelly Rowland – ca sĩ, nhạc sĩ Michelle Williams – ca sĩ, nhạc sĩ Farrah Franklin – ca sĩ (chỉ trong Phiên bản Quốc tế) Michael McCoy – trợ lý kỹ sư Wassim Zreik – trợ lý Mathew Knowles – sản xuất, giám đốc sản xuất Tina Knowles – nhà tạo mẫu, nhà tạo mẫu tóc Orlando Calzada – kỹ sư Michael Conrader – kỹ sư Dave Way – hòa âm Marla Weinhoff – nhà tạo mẫu Greg Bieck – đàn keyboards, kỹ thuật điện tử, kỹ thuật trống, kỹ sư, kỹ thuật Pete Krawiec – trợ lý kỹ sư Kent Huffnagle – kỹ sư Ramon Morales – kỹ sư Falonte Moore – sản xuất K-Fam – sản xuất Errol McCalla – kỹ thuật, sản xuất Bill Lee – sản xuất Woody Pornpitaksuk – sáng tác Eric Seats – đa dụng cụ Robert Conley – kỹ thuật Terry T. – kỹ sư Thom Cadley – hòa âm David Donaldson – đàn keyboards, kỹ sư thu âm Calvin Gaines – sản xuất David Gleeson – kỹ sư