✨USS O'Flaherty (DE-340)
USS O'Flaherty (DE-340) là một tàu hộ tống khu trục lớp John C. Butler từng phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, theo tên Thiếu úy Hải quân Frank Woodrow O'Flaherty (1918–1942), phi công từng phục vụ cùng Liên đội Tuần tiễu VS-6 trên tàu sân bay , đã tham gia trận Midway rồi bị Hải quân Nhật bắt sống và giết hại vào ngày 15 tháng 6, 1942; Thiếu úy O'Flaherty được truy tặng Huân chương Chữ thập Hải quân.
Lịch sử hoạt động
1944
Chạy thử máy - Các hoạt động ban đầu
Sau khi được nhận đạn dược và tiếp liệu tại cảng Orange, O'Flaherty thử nghiệm tác xạ ngoài khơi eo biển Sabine, rồi được trang bị hoàn thiện tại xưởng tàu của hãng Todd tại Galveston và được khử từ trước khi lên đường đi Bermuda vào ngày 25 tháng 4, 1944. Trong thành phần Hạm đội Đại Tây Dương, nó tiến hành chạy thử máy ngoài khơi hòn đảo trong suốt tháng 5. Quay trở về Xưởng hải quân Boston, con tàu được sửa chữa và hiệu chỉnh sau chạy thử máy. thumb|USS O'Flaherty tại Boston vào ngày 8 tháng 6 năm 1944. Đến đầu tháng 6, O'Flaherty lên đường đi Norfolk, Virginia để tham gia thành phần hộ tống cho thiết giáp hạm , vốn đang thực hiện chuyến đi thực tập dành cho học viên sĩ quan thuộc Học viện Hải quân Hoa Kỳ. Nó đã hộ tống cho New York đi đến Trinidad, rồi khởi hành từ đây vào ngày 20 tháng 6 để cùng tàu chị em đi đến vùng kênh đào Panama. Băng qua kênh đào ba ngày sau đó, họ gia nhập Hạm đội Thái Bình Dương và tiếp tục hành trình, ghé qua San Diego, California trước khi hướng sang quần đảo Hawaii. Đi đến Trân Châu Cảng vào ngày 12 tháng 7, nó tháp tùng để bảo vệ cho tàu sân bay hộ tống trong chặng đường đi đến Majuro từ ngày đến ngày20 đến ngày 26 tháng 7. Sau khi đến nơi, nó tiếp tục đi đến để hộ tống cho chiếc tàu chở quân Sea Fiddler đi đến Eniwetok vào cuối tháng đó.
Hộ tống vận tải tại Guam và Eniwetok
Vào đầu tháng 8, O'Flaherty khởi hành từ Eniwetok để hộ tống cho chiếc đi đến Guam, nơi chiếc tàu sân bay hộ tống tung máy bay ra hỗ trợ cho trận chiến nhằm tái chiếm hòn đảo này vào ngày 4 tháng 8. Trong bốn ngày tiếp theo chiếc tàu hộ tống khu trục tuần tra để bảo vệ các tàu vận chuyển tại khu vực đổ bộ vào ban đêm, và tuần tra chống tàu ngầm vào ban ngày. Sau đó nó lên đường hộ tống cho chiếc tàu sửa chữa đi Eniwetok, đến nơi vào ngày 12 tháng 8. Sáu ngày sau, nó rời Eniwetok hộ tống một đoàn tàu chở dầu hướng đến đảo Manus thuộc quần đảo Admiralty, đến nơi vào ngày 28 tháng 8. Quay trở lại Eniwetok vào ngày 2 tháng 9, nó lại lên đường đi Manus trong chuyến đi kéo dài tám ngày, hộ tống cho tàu tiếp liệu khu trục và tàu chở đạn .
Sau khi quay trở về Eniwetok, O'Flaherty lên đường vào ngày 19 tháng 9, hộ tống cho chiếc tàu tiếp dầu và tàu buôn Polau Laut đi Guadalcanal. Tuy nhiên chỉ hai ngày sau đó, nó hoán đổi nhiệm vụ với một đoàn tàu khác, hộ tống chiếc tàu kho chứa và tàu chở hàng quay trở lại Eniwetok, đến nơi vào ngày 24 tháng 9. Chiếc tàu hộ tống khu trục được sửa chữa và bảo trì cho đến ngày 2 tháng 10. Vào đêm 2-3 tháng 10, nó phải di chuyển để giải cứu những người sống sót của một thủy phi cơ PBM Mariner thuộc Liên đội Tuần tra Ném bom VP-21 bị rơi trên biển, cứu vớt được toàn bộ đội bay vào ngày 4 tháng 10. Sau khi quay trở lại Eniwetok, nó lên đường đi Guadalcanal hộ tống cho chiếc tàu chở quân SS Alcoa Polaris, nhưng được thay phiên giữa chặng đường bởi một tàu hộ tống khác để chuyển hướng đến Manus. Rời Manus vào ngày 12 tháng 10, nó tháp tùng để bảo vệ cho tàu sân bay hộ tống trong hành trình đi Majuro. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, nó quay trở về Eniwetok, rồi được lệnh quay trở về Trân Châu Cảng ngang qua Majuro.
Hoạt động tìm-diệt tàu ngầm
Đi vào Xưởng hải quân Trân Châu Cảng vào ngày 26 tháng 10, O'Flaherty được trang bị bổ sung một Trung tâm Thông tin Tác chiến (CIC: Combat Information Center), rồi gia nhập một đội đặc nhiệm tìm-diệt tàu ngầm, được hình thành chung quanh tàu sân bay hộ tống . Đơn vị tiến hành điều tra các báo cáo về hoạt động của tàu ngầm Nhật Bản tại khu vực giữa Hawaii và vùng bờ Tây. O'Flaherty trở thành soái hạm của Đội hộ tống 64 vào cuối tháng 10, và đã dành phần lớn tháng 11 cho nhiệm vụ tuần tra cùng đội đặc nhiệm, cho dù đã không bắt gặp đối thủ nào. Vào ngày 16 tháng 11, nó đã giúp cứu vớt đội bay của một chiếc máy bay ném bom-ngư lôi TBM Avenger của Corregidor bị rơi xuống biển khi tìm cách hạ cánh xuống chiếc tàu sân bay vào ban đêm, tuy nhiên một thành viên đội bay đã qua đời trên tàu. Đội tim-diệt được giải tán sau khi quay trở về Trân Châu Cảng vào ngày 19 tháng 11, và con tàu được bảo trì và sửa chữa.
Trong giai đoạn từ ngày 6 đến ngày 10 tháng 12, O'Flaherty phục vụ canh phòng máy bay cho , khi chiếc tàu sân bay hộ tống hoạt động huấn luyện bay tại khu vực quần đảo Hawaii; nó đã cứu vớt một phi công bị rơi máy bay sau khi cất cánh. Nó thực hành chống tàu ngầm phối hợp cùng chiếc trong các ngày 12 và 13 tháng 12, rồi lên đường vào ngày 15 tháng 12 tháp tùng để bảo vệ tàu sân bay hộ tống đi sang Manus. Khi đến nơi vào ngày 26 tháng 12, nó gia nhập Đơn vị Đặc nhiệm 77.4.3 dưới quyền Chuẩn đô đốc Ralph A. Ofstie, làm nhiệm vụ bảo vệ trên không cho Lực lượng Đặc nhiệm 79, là lực lượng đổ bộ trực thuộc Đệ Thất hạm đội sẽ đổ bộ lên vịnh Lingayen. Nó khởi hành vào ngày 31 tháng 12 trong thành phần hộ tống cho đơn vị đặc nhiệm, vốn hình thành chung quanh các tàu sân bay hộ tống và . Trong ngày 5 tháng 1, 1945, nó tìm kiếm một phi công bị rơi máy bay sau khi cất cánh từ tàu sân bay Kitkun Bay nhưng không có kết quả.
1945
Hoạt động tại vịnh Lingayen
Khi Lực lượng Đặc nhiệm 79 tiếp cận Lingayen, họ trở thành mục tiêu của các đợt không kích tự sát Kamikaze. Vào sáng ngày 8 tháng 1, O'Flaherty nổ phát súng đầu tiên trong chiến đấu nhắm vào một máy bay đối phương đang tiếp cận Đội đặc nhiệm 79.1. Sau đó nó lại nổ súng vào một chiếc Kamikaze đơn độc, nhưng không ngăn được chiếc Nakajima Ki-43 đâm trúng Kitkun Bay, khiến chiếc tàu sân bay tạm thời bị loại khỏi vòng chiến. Nó tiếp tục nổ súng ngăn chặn máy bay đối phương để bảo vệ cho các tàu hộ tống khác đang trợ giúp Kitkun Bay.
Sau khi Kitkun Bay lên đường quay trở về căn cứ để được sửa chữa, O'Flaherty được phái sang tháp tùng các tàu sân bay hộ tống thuộc Đơn vị Đặc nhiệm 77.4.2 dưới quyền Chuẩn đô đốc Felix Stump, khi họ hỗ trợ trên không cho cuộc đổ bộ lên Lingayen vào ngày 11 tháng 1. Đến ngày 17 tháng 1, nó bảo vệ cho các tàu sân bay hộ tống rút lui về Ulithi sau khi bãi đổ bộ được bình định, rồi vào ngày hôm sau đã tìm kiếm một thủy thủ bị sóng cuốn qua mạn tàu sân bay nhưng không có kết quả. Sau khi về đến Ulithi vào ngày 23 tháng 1, chiếc tàu hộ tống khu trục được tiếp liệu, rồi tham gia diễn tập tổng dượt đổ bộ tại các đảo về phía Đông Ulithi từ ngày 3 đến ngày 6 tháng 2, nhằm chuẩn bị cho cuộc đổ bộ tiếp theo lên Iwo Jima.
Iwo Jima
Vào ngày 10 tháng 2, Đội đặc nhiệm 52.2 (đội tàu sân bay hỗ trợ) dưới quyền Chuẩn đô đốc Calvin T. Durgin thuộc Lực lượng Đặc nhiệm 52 Đệ Ngũ hạm đội xuất phát từ Ulithi; O'Flaherty nằm trong thành phần hộ tống cho Đơn vị Đặc nhiệm 52.2.1 dưới quyền Chuẩn đô đốc Clifton Sprague, được hình thành chung quanh các tàu sân bay hộ tống , , , và Wake Island. Thành phần hộ tống bảo vệ còn bao gồm tàu khu trục và các tàu hộ tống khu trục , và . Đội đặc nhiệm 52.2 đi đến Saipan vào ngày 12 tháng 2, nơi các cuộc tổng dượt sau cùng được tiến hành, và O'Flaherty tạm thời được điều sang Đơn vị Đặc nhiệm 52.2.2 vào ngày hôm sau trước khi quay trở lại Đơn vị Đặc nhiệm 52.2.1 vào ngày 14 tháng 2, khi họ cùng lực lượng bắn phá lên đường hướng sang Iwo Jima. Đơn vị đi đến ngoài khơi hòn đảo vào cuối ngày 15 tháng 2, khi các tàu sân bay bắt đầu tung ra các phi vụ không kích chuẩn bị xuống các vị trí của quân Nhật tại đây, và xuống các mục tiêu tại quần đảo Bonin vào sáng ngày hôm sau. thumb|Một phi công được cứu vớt bởi O'Flaherty đang được chuyển trở lại chiếc tàu sân bay hộ tống Sau ba ngày bị bắn phá bằng hải pháo và không kích từ các tàu sân bay, cuộc đổ bộ lên Iwo Jima diễn ra vào ngày 19 tháng 2. Sáng hôm đó, O'Flaherty bắn pháo 5-inch và pháo phòng không nhằm cố gắng phá hủy một quả thủy lôi trôi nổi, rồi trong ngày hôm đó đã cứu vớt phi công một máy bay tiêm kích FM-2 Wildcat từ tàu sân bay hộ tống bị bắn rơi trên biển. Nó chuyển một phi công bị bắn rơi trở lại chiếc Natoma Bay vào ngày 21 tháng 2, rồi được cho tách ra để cùng Wake Island, Petrof Bay, Grady và tàu khu trục gia nhập các đơn vị đặc nhiệm 52.2.2 và 52.2.3, sau khi tàu sân bay hạm đội bị loại khỏi vòng chiến do bị máy bay Kamikaze đâm trúng.
Quay trở lại cùng Đơn vị Đặc nhiệm 52.2.1 vào ngày 23 tháng 2, O'Flaherty tiếp tục ở lại hoạt động tại khu vực Iwo Jima từ ngày 8 tháng 3 trong thành phần Đơn vị Đặc nhiệm 52.2.3, bao gồm Wake Island, và , sau khi Đơn vị Đặc nhiệm 52.2.1 rút lui về Ulithi. Sau khi sân bay tại Iwo Jima sẵn sàng cho việc tiếp nhận máy bay Không lực làm nhiệm vụ hỗ trợ tác chiến trên bộ, O'Flaherty cùng với Đơn vị Đặc nhiệm 52.2.3 là những tàu sân bay hộ tống cuối cùng rời khu vực vào ngày 11 tháng 3, và về đến Ulithi ba ngày sau đó.
Okinawa
Phần thưởng
O'Flaherty được tặng thưởng bốn Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.