✨U-98 (tàu ngầm Đức) (1940)

U-98 (tàu ngầm Đức) (1940)

U-98 là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã thực hiện được chín chuyến tuần tra, đánh chìm được mười tàu buôn có tổng tải trọng và một tàu chiến phụ trợ tải trọng , đồng thời gây hư hại cho một tàu buôn khác. Trong chuyến tuần tra cuối cùng trong Đại Tây Dương, U-98 bị tàu khu trục Anh đánh chìm về phía Tây eo biển Gibraltar vào ngày 15 tháng 11, 1942.

Thiết kế và chế tạo

Thiết kế

thumb|left|Sơ đồ các mặt cắt một tàu ngầm Type VIIC Phân lớp VIIC của Tàu ngầm Type VII là một phiên bản VIIB được kéo dài thêm. Chúng có trọng lượng choán nước khi nổi và khi lặn). Con tàu có chiều dài chung , lớp vỏ trong chịu áp lực dài , mạn tàu rộng , chiều cao và mớn nước .

Chúng trang bị hai động cơ diesel Germaniawerft F46 siêu tăng áp 6-xy lanh 4 thì, tổng công suất , dẫn động hai trục chân vịt đường kính , cho phép đạt tốc độ tối đa , và tầm hoạt động tối đa khi đi tốc độ đường trường . Khi đi ngầm dưới nước, chúng sử dụng hai động cơ/máy phát điện AEG GU 460/8–27 tổng công suất . Tốc độ tối đa khi lặn là , và tầm hoạt động ở tốc độ . Con tàu có khả năng lặn sâu đến .

Vũ khí trang bị có năm ống phóng ngư lôi , bao gồm bốn ống trước mũi và một ống phía đuôi, và mang theo tổng cộng 14 quả ngư lôi, hoặc tối đa 22 quả thủy lôi TMA, hoặc 33 quả TMB. Tàu ngầm Type VIIC bố trí một hải pháo 8,8 cm SK C/35 cùng một pháo phòng không trên boong tàu. Thủy thủ đoàn bao gồm 4 sĩ quan và 40-56 thủy thủ.

Chế tạo

U-98 được đặt hàng vào ngày 30 tháng 5, 1938, Vào ngày 27 tháng 3, nó phóng ngư lôi đánh chìm tàu buôn Anh Koranton , vốn bị tách khỏi Đoàn tàu SC 25, ở vị trí về phía Tây Nam Reykjavík tại tọa độ . Đến ngày 4 tháng 4 U-98 tham gia cùng một bầy sói để tấn công Đoàn tàu SC 26, đánh chìm các tàu buôn Na Uy Helle tại tọa độ , và tàu buôn Anh Welcombe tại tọa độ . Năm ngày sau đó 9 tháng 4, nó tiếp tục phóng ngư lôi đánh chìm tàu buôn Hà Lan Prins Willem II vốn bị tách khỏi Đoàn tàu HX 117, tại tọa độ . U-98 kết thúc chuyến tuần tra và đi đến cảng Lorient bên bờ biển Đại Tây Dương của Pháp đã bị Đức chiếm đóng, đến nơi vào ngày 14 tháng 4. Tại đây lúc 04 giờ 00 ngày 13 tháng 5, nó phát hiện tàu buôn tuần dương vũ trang (10.549 tấn) đang hộ tống Đoàn tàu SC 30 ở vị trí khoảng về phía Đông Nam mũi Farewell.

Hai loạt ngư lôi đầu tiên, mỗi loạt hai quả, do U-98 phóng lúc sau 04 giờ 00 và 06 giờ 19 phút nhắm vào Salopian đều không trúng đích. Hai quả ngư lôi trong loạt thứ ba đánh trúng Salopian phía giữa và mũi tàu, nhưng chiếc tàu buôn tuần dương tiếp tục chống trả bằng hải pháo, buộc U-98 phải lặn xuống. Tuy nhiên Salopian cũng bị hư hại động cơ và ăn-ten vô tuyến. Đến 08 giờ 00 và 08 giờ 50 phút, thêm hai quả ngư lôi đánh trúng phòng động cơ của Salopian; rồi cuối cùng lúc 10 giờ 43 phút, quả ngư lôi thứ chín trúng đích phía giữa tàu đã khiến chiếc tàu buôn tuần dương vỡ làm đôi và đắm chỉ trong vòng hai phút, tại tọa độ . Sang ngày hôm sau, nó tiếp tục phóng ngư lôi đánh chìm tàu buôn Anh Marconi , vốn bị tách ra khỏi Đoàn tàu OB-322, lúc 05 giờ 45 phút ở vị trí về phía Đông Nam mũi Farewell, tại tọa độ . Khi kết thúc chuyến tuần tra, U-98 đi đến cảng St. Nazaire cùng bên bờ Đại Tây Dương của Pháp vào ngày 10 tháng 4. Nó đã tấn công Đoàn tàu OB 341 ở vị trí về phía Tây Bắc quần đảo Azores vào ngày 9 tháng 7, đánh chìm tàu buôn Anh Designer lúc 01 giờ 55 phút tại tọa độ , và sau đó là tàu buôn Anh Inverness lúc 05 giờ 44 phút tại tọa độ . Chiếc tàu ngầm quay trở về St. Nazaire vào ngày 23 tháng 7. Vào ngày 16 tháng 9, nó phóng ngư lôi tấn công Đoàn tàu SC 42 ở vị trí về phía Tây Bắc quần đảo St. Kilda, Scotland, đánh chìm tàu buôn Anh Jedmoor tại tọa độ . U-98 kết thúc chuyến tuần tra và quay trở về St. Nazaire vào ngày 26 tháng 9.

1942

Chuyến tuần tra thứ sáu

U-98 xuất phát từ St. Nazaire vào ngày 18 tháng 1 cho chuyến tuần tra thứ sáu, băng qua suốt Đại Tây Dương để hoạt động tại vùng biển ngoài khơi Canada và Hoa Kỳ. Tại đây vào ngày 15 tháng 2, nó phóng ngư lôi tấn công chiếc tàu buôn Anh Biela , vốn bị phân tán khỏi Đoàn tàu ON 62, đánh chìm mục tiêu ở vị trí về phía Đông Nam mũi Race, Newfoundland, tại tọa độ ; toàn bộ 45 thành viên thủy thủ đoàn và năm pháo thủ đều thiệt mạng. U-98 quay trở về St. Nazaire vào ngày 27 tháng 2.

Chuyến tuần tra thứ tám

Xuất phát từ St. Nazaire vào ngày 14 tháng 7 cho chuyến tuần tra thứ tám, U-98 vượt Đại Tây Dương để quay trở lại khu vực ngoài khơi Florida, nơi nó rải một bãi 12 quả thủy lôi TMB vào ngày 9 tháng 8. Tàu quét mìn Hoa Kỳ (185 tấn) đã bị hư hại vào ngày hôm sau 10 tháng 8 khi lọt vào bãi mìn này. U-98 quay trở về căn cứ St. Nazaire vào ngày 16 tháng 9.

Chuyến tuần tra thứ chín - Bị mất

U-98 khởi hành từ căn cứ St Nazaire, Pháp vào ngày 22 tháng 10 cho chuyến tuần tra thứ chín, cũng là chuyến cuối cùng, để hoạt động tại khu vực giữa Đại Tây Dương. Vào ngày 15 tháng 11, nó bị tàu khu trục Anh phát hiện và tấn công bằng mìn sâu ở vị trí về phía Tây eo biển Gibraltar. U-98 đắm tại tọa độ ; toàn bộ 46 thành viên thủy thủ đoàn trên tàu đều tử trận.

"Bầy sói" tham gia

U-98 từng tham gia sáu bầy sói:

  • West (8 – 27 tháng 5, 1941)
  • Seewolf (3 – 15 tháng 9, 1941)
  • Störtebecker (5 – 19 tháng 11, 1941)
  • Gödecke (19 – 22 tháng 11, 1941)
  • Natter (30 tháng 10 – 8 tháng 11, 1942)
  • Westwall (8 – 15 tháng 11, 1942)

Tóm tắt chiến công

U-98 đã đánh chìm được mười tàu buôn có tổng tải trọng và một tàu chiến phụ trợ tải trọng , đồng thời gây hư hại cho một tàu buôn khác:

👁️ 4 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**_U-98_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã thực
**_U-105_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Type IXB được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã thực
**_U-103_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Type IXB được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã thực
**_U-94_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã thực
Ít nhất hai tàu ngầm của Hải quân Đức từng được đặt cái tên **_U-98_**: * là một tàu ngầm hạ thủy năm 1917, phục vụ trong Thế Chiến I và đầu hàng năm 1919
**Lớp tàu sân bay _Courageous**_, đôi khi còn được gọi là **lớp _Glorious_**, là lớp nhiều chiếc tàu sân bay đầu tiên phục vụ cùng Hải quân Hoàng gia Anh Quốc. Ba chiếc trong lớp
**HMS _Duncan_ (D99)** là một tàu khu trục lớp D được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc chế tạo vào đầu những năm 1930. Là một soái hạm khu trục, nó thoạt tiên được phân
**USS _Santee_ (ACV/CVE/CVHE-29)** là một tàu sân bay hộ tống của Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nguyên là một tàu chở dầu trước chiến tranh, nó được Hải quân
**HMCS _Skeena_ (D59/I59)** là một tàu khu trục thuộc lớp _River_ của Hải quân Hoàng gia Canada đã phục vụ từ năm 1931 đến năm 1944. Nó tương tự như những chiếc tàu khu trục
**USS _Livermore_ (DD-429)** là một tàu khu trục lớp _Gleaves_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó đã tham gia suốt Thế Chiến II, sống sót qua
**HMS _Hood_ (51)** là chiếc tàu chiến-tuần dương cuối cùng và cũng đồng thời là chiếc tàu chiến-tuần dương duy nhất thuộc lớp Admiral của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc được chế tạo hoàn
**HMS _Norfolk_ (78)** là một tàu tuần dương hạng nặng thuộc lớp _County_ của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc, và là chiếc dẫn đầu cho lớp phụ _Norfork_, cùng chung với chiếc HMS Dorsetshire
Chiếc **Grumman TBF Avenger** (Người Báo Thù) (còn mang ký hiệu là **TBM** cho những chiếc được sản xuất bởi General Motors) là kiểu máy bay ném ngư lôi, ban đầu được phát triển cho
**Hughes H-4 Hercules** (số đăng ký NX37602) là nguyên mẫu máy bay vận tải hạng nặng (chiếc đầu tiên và cuối cùng) do công ty Hughes Aircraft thiết kế và chế tạo. Chiếc máy bay
**Boeing B-17 Flying Fortress** **(Pháo đài bay)** là kiểu máy bay ném bom hạng nặng 4 động cơ được phát triển cho Không lực Hoa Kỳ (USAAF) và được đưa vào sử dụng vào cuối
**Convair B-36 "Peacemaker"** là một kiểu máy bay ném bom chiến lược được chế tạo bởi hãng Convair cho Không quân Hoa Kỳ. B-36 là máy bay gắn động cơ piston lớn nhất từng được
**Đại thanh trừng** là một loạt các biện pháp trấn áp tại Liên Xô kéo dài từ mùa thu năm 1936 cho tới đầu năm 1938. Sự kiện này liên quan tới một cuộc thanh
**Qatar** (phát âm: “Ca-ta”, , chuyển tự: _Qaṭar_), tên gọi chính thức là **Nhà nước Qatar** (, chuyển tự: _Dawlat Qaṭar_) là quốc gia có chủ quyền tại châu Á, thuộc khu vực Tây Nam
**Ninh Thuận** là một tỉnh cũ ven biển gần cực nam vùng duyên hải Nam Trung Bộ, miền Trung của Việt Nam. Thủ phủ của tỉnh là thành phố Phan Rang – Tháp Chàm nằm
**Helsinki** (; ; ) là thủ đô, đồng thời là thành phố đông dân nhất của Phần Lan với số dân 648,650 người. Tọa lạc bên bờ vịnh Phần Lan, thành phố là trung tâm