✨USS Johnston (DD-557)

USS Johnston (DD-557)

USS Johnston (DD-557) là một tàu khu trục lớp Fletcher được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến đầu tiên của Hải quân Mỹ được đặt theo tên Trung úy Hải quân John V. Johnston (?-1912), sĩ quan hải quân từng tham gia cuộc Nội chiến Hoa Kỳ. Con tàu trở nên nổi tiếng khi đã hoạt động anh dũng và bị đánh chìm trong Trận chiến ngoài khơi Samar ngày 25 tháng 10 năm 1944. Cho dù chỉ trang bị hải pháo 5 in (127mm) và ngư lôi, nó dẫn đầu một nhóm nhỏ tàu khu trục và tàu khu trục hộ tống ngăn chặn Lực lượng Trung tâm hùng hậu của Nhật Bản, bao gồm nhiều thiết giáp hạm và tàu tuần dương dưới quyền Phó đô đốc Takeo Kurita, gây cho đối phương nhiều thiệt hại hơn chính bản thân họ. Sự hy sinh của Johnston và của đơn vị đặc nhiệm tàu sân bay hộ tống "Taffy 3" đã giải cứu lực lượng đổ bộ Đệ Thất hạm đội khỏi thảm họa bị tiêu diệt. Do thành tích phục vụ, nó được tặng thưởng danh hiệu Đơn vị Tuyên dương Tổng thống cùng sáu Ngôi sao Chiến trận trong Thế Chiến II.

Thiết kế và chế tạo

Johnston được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Seattle-Tacoma Shipbuilding Corporation ở Seattle, Washington vào ngày 6 tháng 5 năm 1942. Nó được hạ thủy vào ngày 25 tháng 3 năm 1943; được đỡ đầu bởi bà Marie S. Klinger, cháu gái Trung úy Johnston; và nhập biên chế vào ngày 27 tháng 10 năm 1943 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân Ernest E. Evans.

Lịch sử hoạt động

Trung tâm và Nam Thái Bình Dương

Trong chiến dịch quần đảo Marshall, Johnston đã bắn phá các bãi biển tại Kwajalein vào ngày 1 tháng 2 năm 1944, cũng như một đợt bắn phá kéo dài năm ngày xuống từ ngày 17 đến ngày 22 tháng 2. Nó đã hỗ trợ trực tiếp cho lực lượng tấn công tại đây, phá hủy nhiều công sự phòng thủ đối phương. Trên đường đi làm nhiệm vụ tuần tra tại khu vực quần đảo Solomon vào ngày 28 tháng 3, nó bắn phá đảo san hô Kapingamarangi thuộc quần đảo Caroline, phá hủy một đài quan sát và nhiều lô cốt cùng các công trình khác. Hai ngày sau, nó đi đến khu vực cửa sông Maririca về phía Đông Nam vịnh Nữ hoàng Augusta, Bougainville thuộc quần đảo Solomon. Sau khi bắn phá khu vực, nó đảm nhiệm tuần tra chống tàu ngầm ngoài khơi Bougainville. Đang khi làm nhiệm vụ này, vào ngày 15 tháng 5, nó đã tấn công bằng mìn sâu và đánh chìm được tàu ngầm Nhật I-176.

Sau ba tháng tuần tra tại khu vực quần đảo Solomon, Johnston lên đường đi đến quần đảo Marshall để chuẩn bị cho việc tấn công và chiếm đóng Guam thuộc quần đảo Mariana. Vào ngày 21 tháng 7, nó hợp cùng thiết giáp hạm , chiến hạm kỳ cựu sống sót qua cuộc Tấn công Trân Châu Cảng, để bắn phá Guam; chiếc tàu khu trục đã bắn hơn 4.000 quả đạn pháo cho đến ngày 29 tháng 7, phá hủy các khẩu đội pháo phòng thủ duyên hải, công sự phòng ngự và trại binh đối phương. Sau đó, nó bảo vệ cho các tàu sân bay hộ tống làm nhiệm vụ hỗ trợ trên không cho việc tấn công và chiếm đóng Peleliu.

Philippines

Sau một thời gian chờ đợi kéo dài, cuối cùng Đại tướng Douglas MacArthur cũng thực hiện được lời hứa sẽ quay trở lại Philippines. Được tiếp liệu tại cảng Seeadler thuộc quần đảo Admiralty, Johnston khởi hành vào ngày 12 tháng 10 để bảo vệ cho các tàu sân bay hộ tống nhằm duy trì ưu thế trên không ở khu vực phía Đông đảo Leyte và vịnh Leyte, càn quét các sân bay tại chỗ đối phương cũng như hỗ trợ trực tiếp cho binh lính tại các bãi đổ bộ vào ngày 20 tháng 10, thậm chí tiêu diệt các tàu vận chuyển và tiếp liệu đối phương đang trên đường đến Leyte. Chiếc tàu khu trục hoạt động cùng Đơn vị Đặc nhiệm tàu sân bay hộ tống 77.4.3, với mã gọi tắt là "Taffy 3", bao gồm , soái hạm của Chuẩn đô đốc Clifton Sprague, năm tàu sân bay hộ tống khác, ba tàu khu trục kể cả chính Johnston, và bốn tàu khu trục hộ tống. "Taffy 3" là một trong số ba đơn vị trực thuộc Đội đặc nhiệm 77.4 dưới quyền Chuẩn đô đốc Thomas L. Sprague, lần lượt được đặt tên là "Taffy 1", "Taffy 2"và "Taffy 3".

Trận chiến của Taffy 3

Sáng ngày 23 tháng 10, tàu ngầm Hoa Kỳ phát hiện và tấn công các đơn vị của hạm đội Nhật Bản xuất phát từ Biển Đông, đang hướng về các bãi đổ bộ ở Leyte. Nhóm các thiết giáp hạm, tàu tuần dương và tàu khu trục thuộc Lực lượng phía Nam Nhật Bản, do Phó đô đốc Shoji Nishimura chỉ huy, đã bị lực lượng dưới quyền Chuẩn đô đốc Jesse Oldendorf tiêu diệt khi chúng tìm cách xâm nhập vào vịnh Leyte ngang qua eo biển Surigao trong đêm 24-25 tháng 10. Lực lượng Trung tâm Nhật Bản hùng mạnh hơn, dưới quyền chỉ huy của Phó đô đốc Takeo Kurita, đã bị máy bay từ tàu sân bay của Đô đốc William Halsey tấn công liên tục, và được cho là đã quay đầu khỏi eo biển San Bernardino. Đô đốc Halsey sau đó vượt lên phía Bắc cùng lực lượng tàu sân bay và thiết giáp hạm của mình để tấn công Lực lượng phía Bắc Nhật Bản, một lực lượng nghi binh gồm những tàu sân bay còn rất ít máy bay, trong Trận chiến mũi Engaño. Điều này đã khiến Johnston cùng đơn vị đặc nhiệm tàu sân bay hộ tống nhỏ bé của nó trở thành những lính gác đơn độc phía Bắc vịnh Leyte, về phía Đông Samar và ngoài khơi eo San Bernardino.

Cuối cùng đô đốc Kurita cũng quay mũi lực lượng của mình một lần nữa, và đến sáng ngày 25 tháng 10, Lực lượng Trung tâm Nhật Bản tiến ra khỏi eo biển San Bernardino, đi vào biển Philippine và hướng về phía vịnh Leyte. Chúng đi dọc theo bờ biển Samar, hướng thẳng về phía đơn vị đặc nhiệm của _Johnston_và các bãi đổ bộ tại Leyte, hy vọng có thể tiêu diệt tàu bè đổ bộ và binh lính trên bờ.

Một trong những phi công tuần tra cất cánh ngay sau bình minh đã gửi báo động về việc Lực lượng Trung tâm Nhật Bản đang tiếp cận. Hướng thẳng về phía Johnston là bốn thiết giáp hạm, bao gồm chiếc Yamato lớn nhất thế giới, tám tàu tuần dương (sáu hạng nặng và hai hạng nhẹ) cùng 11 tàu khu trục. Sĩ quan tác xạ của Johnston, Đại úy Hải quân Robert C. Hagen, sau này kể lại: "Chúng tôi có cảm giác giống như David không có cả cái ná". Trong vòng không đầy một phút, Johnston chạy zig-zag giữa sáu chiếc tàu sân bay hộ tống và hạm đội Nhật Bản, thả một màn khói ngụy trang rộng hơn để che giấu các tàu sân bay khỏi các pháo thủ đối phương. "Ngay khi chúng tôi bắt đầu thả khói, phía Nhật Bản bắt đầu bắn pháo vào chúng tôi. Chúng tôi phải len lỏi giữa những phát đạn pháo... Chúng tôi là chiếc đầu tiên thả màn khói, chiếc đầu tiên khai hỏa, chiếc đầu tiên tấn công bằng ngư lôi..." , một tàu khu trục hộ tống lớp Dealey, được đặt tên theo Thiếu tá Evans; nó hạ thủy năm 1955 và xuất đăng bạ năm 1973.

Chiếc thứ hai, , là một tàu khu trục lớp Gearing hạ thủy vào ngày 10 tháng 10 năm 1945. Vào ngày 27 tháng 2 năm 1981, nó được rút đăng bạ và chuyển cho Trung Hoa dân quốc (Đài Loan), phục vụ cùng Hải quân Trung Hoa dân quốc như là chiếc ROCS Chen Yang, sau đó được xếp lại lớp như một tàu khu trục tên lửa DDG-928. Chen Yang xuất biên chế ngày 16 tháng 12 năm 2003.

👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**USS _Johnston_ (DD-557)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến đầu tiên của Hải quân Mỹ
**IJN Yamato** () là những thiết giáp hạm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản được chế tạo và hoạt động trong Thế chiến thứ hai. Với trọng lượng rẽ nước khi đầy tải lên